Thứ Ba, 22 tháng 9, 2015

Người lao động cần làm gì để tự bảo vệ mình?

Theo thống kê của các cơ quan chức năng, các địa phương thì người cần lao làm công bây chừ hầu hết là lao động theo các dự án đầu tư, làm thuê thuộc lĩnh vực xây dựng, làm mướn ở các đơn vị tư nhân theo dịch vụ của tư nhân, phục vụ các nhà hàng, bán hàng, xe ôm, giúp việc..
 

Cong ty bao ve chuyen nghiep


Những đối tượng này chính là nguồn lực bổ sung về lao động rất quan trọng cho hoạt động kinh tế và dân sinh nhưng vì không có đủ kỹ năng, hiểu biết chính sách luật pháp cần lao để thỏa thuận với người thuê khi thương thuyết về thời kì, giá cả, điều kiện việc làm họ thường phải chịu thiệt thòi.

Trường hợp điển hình ở Quảng Ninh: Liên đoàn lao động tỉnh đã nhận được 50 đơn khiếu nại của người lao động làm việc tại Nhà máy Nhiệt điện Mông Dương với nội dung kho than của nhà máy bị sập, chủ thầu bỏ trốn và không thanh toán lương hướng cho 50 cần lao. 

Cái khó là 50 lao động này đều là lao động tự do làm việc theo thời vụ, khi dự làm việc tại Nhà máy nhiệt điện chỉ ký hợp đồng kinh tế với chủ thầu chứ không có giao kèo lao động và không được hưởng các chế độ BHXH; hơn nữa, họ không phải ký hiệp đồng trực tiếp với chủ thầu chính thức của dự án Nhiệt điện Mông Dương mà qua đến 4 lượt chủ thầu gánh vác các phần việc, cho nên các cơ quan quản lý quốc gia về cần lao, tổ chức công đoàn rất khó có thể quản lý, bảo vệ lợi quyền. 
 




Cá nhân người cần lao tự do phải tự bảo vệ mình là chấp hành luật pháp và thận trọng trong làm việc. 


Tai nạn lao động chết người không phải là hiếm nhưng khi xảy ra thì chủ sử dụng lao động sẽ giấu nhẹm mọi chuyện để tránh sự vào cuộc của các cơ quan chức năng và cũng vì miếng cơm manh áo, những cần lao này bằng lòng sự may rủi, thậm chí đánh đổi cả tính mạng. 

Đơn độc, không biết tìm ai để tham mưu khi gặp khó khăn, kèm theo là những điều kiện làm việc xấu như kéo dài ngày giờ làm việc, không được đảm bảo và dễ dàng bị sa thải, bị chủ lao động bóc lột sức cần lao, môi trường độc hại nhưng không có bảo hộ cần lao là những vướng mắc của lao động tự do. 

nguyên cớ chính là do cần lao tự do không được ký kết hiệp đồng cần lao nên mọi tai nạn xảy ra người thuê thường lảng tránh, không chịu trách nhiệm với người làm công, với pháp luật.

bây chừ quốc gia mới có chính sách về lương hướng, an sinh từng lớp khác cho nhóm cần lao khu vực chính thức, chứ chưa có chính sách nào cho nhóm lao động tự do. 

cần lao tự do không được hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN và các vấn đề về an sinh từng lớp, môi trường sống, môi trường làm việc rất phức tạp. Những năm gần đây, quốc gia đã thực hành chính sách BHXH tình nguyện và BHYT toàn dân, nhưng cần lao tự do tham dự rất ít. phần nhiều do trình độ của họ còn nhiều hạn chế nên chưa thấy hết được ích lợi của việc tham dự các loại bảo hiểm. 

Cộng với điều kiện về kinh tế, vật chất còn khó khăn, thu nhập của lao động khu vực này rất thấp, công việc không ổn định trong khi thời gian tham gia đóng BHXH lại quá dài cũng khiến họ chẳng thể theo đến cùng. Nhiều chế độ chính sách của quốc gia dành cho người cần lao cũng không nhắc tới đối tượng này. 

Bộ luật An toàn và vệ sinh cần lao  được Quốc hội duyệt y mới chỉ điều chỉnh số cần lao ở khu vực chính thức. Số cần lao thuộc diện cần lao tự do chiếm số lượng lớn trong hệ thống thị trường lao động của nước ta đã được các đại biểu Quốc hội quan tâm yêu cầu đưa vào luật.

thời gian qua, nhằm tụ tập cần lao tự do vào một tổ chức để dễ quản lý và bảo vệ lợi quyền cho họ. hiện thời, công đoàn các cấp cũng đang hăng hái thành lập các nghiệp đoàn, tập kết cần lao tự do cùng hoạt động chung một lĩnh vực, ngành nghề với nhau vào một nghiệp đoàn để tiện quản lý và bảo vệ. 

Tuy nhiên, về quản lý mặt nhà nước, cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý đối với cần lao tự do; tỉnh cũng cần có chính sách quan hoài giải quyết việc làm trên địa bàn, gắn đào tạo với cung cấp cần lao. 

Để giải quyết các vấn đề an sinh tầng lớp, an ninh thứ tự trên địa bàn. nhà nước cần có các chính sách nhằm kết hợp linh hoạt và bảo vệ cần lao khu vực kinh tế phi chính thức và việc làm phi chính thức; tạo điều kiện hơn nữa về đất đai cho doanh nghiệp địa phương để mở mang sinh sản, cuốn lao động tại chỗ, đào tạo nghề cho người lao động.

Nên chăng cần có sự nhận chính thức loại hình lao động tự do này bằng việc xây dựng các chính sách liên tưởng đến lợi quyền của họ. Sự nhận và hợp pháp hóa loại hình lao động phi chính thức này là rất cấp thiết để thúc đẩy sự phát triển của đối tượng cần lao khu vực tự do. 

Qua đó cần có những biện pháp bảo vệ và tổ chức đứng ra đại diện cho lực lượng lao động tự do đang càng ngày càng phát triển; có những biện pháp tạo điều kiện để họ tham dự các loại hình bảo hiểm. Đặc biệt là chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội mới lấp đầy khoảng trống an sinh xã hội.

Một công nhân tâm tư với chúng tôi: “Công việc của lao động tự do rất nhiều việc  hiểm nguy, nặng nhọc, ráo mồ hôi cạn đồng bạc. Đã 10 năm trong nghề, từng làm mướn cho nhiều chủ thầu, xây nhiều công trình nhưng tôi chưa hề được trang bị bảo hộ lao động, thậm chí thi công cả các tòa nhà cao tầng và cũng không hề được ký hiệp đồng lao động. 

Do không có hiệp đồng lao động, không được tham gia BHXH nên khi gặp tai nạn lao động chúng tôi không được hưởng bất cứ chế độ gì. Tiền nằm viện, thuốc thang đẵn là thương lượng với chủ thầu, người tốt thì hỗ trợ cho được chút còn không thì cũng chẳng có gì, thậm chí tai nạn không làm được việc họ thải hồi luôn. 

Có những công trình thẳng thớm phải làm hơn 10 tiếng/ngày, vì chủ nhà yêu cầu phải hoàn tất sớm nhưng lương hướng vẫn chỉ tính khoán vài trăm ngàn đồng ngày công, nghỉ làm thì nghỉ ăn.

Thế thì làm gì để người cần lao tự do tự bảo vệ mình? Vấn đề đề được đặt ra là: đầu tiên luật An toàn vệ sinh cần lao (ATVSLĐ) phải được trình diễn.# như các đại biểu Quốc hội đàm luận: Các đại biểu đều đánh giá cao việc thu nạp chỉnh lý của Ban soạn thảo và dự thảo luật đã đầy đủ, bao quát hơn. 

Trong phiên bàn luận, nội dung việc mở mang đối tượng áp dụng đối với toàn bộ người lao động được nhiều đại biểu cho quan điểm. Các đại biểu Quốc hội tán thành với việc mở mang đối tượng ứng dụng đối với tất thảy người cần lao và đề nghị quy định một số chính sách cụ thể hơn về ATVSLĐ đối với khu vực không có quan hệ lao động; một số ý kiến băn khoăn về tính khả thi của chính sách ATVSLĐ đối với khu vực không có quan hệ lao động, đề nghị làm rõ vai trò hỗ trợ của quốc gia, nguồn lực thực thi chính sách. 

Quy định rõ nghĩa vụ của UBND cấp xã trong việc thống kê, báo cáo người thuê lao động làm việc như thế nào, có hiệp đồng cần lao hay không? Có đảm bảo an toàn lao động để đảm bảo tính khả thi?

Cá nhân người lao động tự do phải tự bảo vệ mình là chấp hành pháp luật và thận trọng trong làm việc. Nếu làm thuê cho chủ cần lao thì yêu cầu với người dùng lao động phải ký hiệp đồng lao động, ít ra cũng phải đảm bảo an toàn vệ sinh lao động, nhất là khâu bảo hộ cần lao và bảo hiểm tai nạn lao động.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét